“Tư tưởng Hồ Chí Minh” không khép kín, tự đủ, không nhất thành bất biến mà luôn luôn phát triển với dân tộc và thế giới.
Nói về thế kỷ XX vừa lùi vào quá khứ, có người đã khái quát bằng một hình ảnh thật độc đáo có ý nghĩa khơi gợi rất lớn: Nếu lịch sử hơn 4 triệu năm của loài người thu lại trong 1 năm thì thế kỷ XX chỉ là 13 phút, từ 23h47’ đến 24h của ngày 31/12. Trong 13 phút ấy, đặc biệt trong 5 phút cuối cùng, loài người đã hiểu biết nhiều hơn toàn bộ hệ thống kiến thức tích luỹ trước đó, tức là từ khi trên trái đất bắt đầu có con người! Bình minh của thiên niên kỷ mới với những năm đầu của thế kỷ XXI đã cho ta những cảm nhận thật sống động, những biến động dữ dội khó mà tiên liệu được! Một sự dồn nén như vậy tất sẽ đưa đến những đột biển lớn lao trong lịch sử tư tường của loài người, "lượng” sẽ biển thành “chất”. Đúng là, "chúng ta đang làm biến đổi môi trường của ta đến tận gốc rễ đến mức rồi ta phải tự biến đổi chính mình để tồn tại được trong môi trường đó" (Nobert Wiener)
Chính những diễn biển của cuộc sống ở buổi bình minh của thiên niên kỷ đang khẳng định một sự thật: Chuẩn mực chính là sự thay đổi!
Với Hồ Chí Minh, chúng ta có tấm gương tuyệt vời vế sự nhất quán từ trước đến sau, từ lúc khởi đầu cuộc tìm đường cứu nước, với bao sức ép từ mọi phía cho đến khi Đảng ra đời qua bao thăng trầm, thử thách khốc liệt để có cách mạng Tháng Tăm 1945, ra đời nước cộng hoà non trẻ giữa vòng vây trùng điệp của kẻ thù, tiến hành hai cuộc kháng chiến với ý chí "Không có gì quý hơn độc lập tự do". Đó là sự dân quyền về mục tiêu độc lập cho dân tạc, tự do cho nhân.
Với mục tiêu đó, Hồ Chí Minh đã đấu tranh cho sự hợp nhất và ra đời của Đảng năm 1930, thậm chí có lúc vì mực tiêu đó mà dám có quyết định táo bạo cho dù đau đớn là tuyên bố Đảng tự giải tán. Thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật chính vào lúc giành được chính quyền vào năm 1945. Rồi cũng vì mục tiêu đó mà sáng suốt và kiên quyết đổi tên Đảng Cộng sản Đông Dương thành Đảng Lao động Việt Nam vào năm 1951.
Tên tuổi và sự nghiệp của Hồ Chí Minh đã thực sự là ngọn cờ trong khối óc và trái tim cửa người Việt Nam của dân tộc Việt Nam. Giương cao ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh để vẫy gọi và quy tụ mọi tấm lòng Việt Nam vốn nặng lòng vì quê hương, đất nước. Những người đã trải qua sự thử thách trong gần nửa thế kỷ chiến đấu và chiến thắng. Những người với những hoàn cảnh và điếu kiện khác nhau đã gửi gắm tình yêu nước thương nòi của mình trong nhiều hành động và nghĩa cử không ai giống ai. Làm cho mọi giọt máu của mỗi người Việt Nam cùng chảy về trái tim của dân tộc để rồi toả đi khắp bốn phương nuôi dưỡng hành động vì nghĩa lớn đất nước. Làm được điều đó cũng là cách tao nên được sự đồng thuận xã hội sâu sắc và rộng lớn, có sức vẫy gọi và hội được khối đại đoàn kết toàn dân tộc hường về mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ công bằng văn minh.
"Tư tưởng Hồ Chí Minh" không khép kín, tự đủ, không nhất thành bất biến mà luôn luôn phát triển với dân tộc và thế giới. Phải biết làm cho tư tường Hồ Chí Minh sống trong cuộc sống của mọi người Việt Nam, tiếp tục cho nghị lực và tâm hồn của mỗi con người đang xây dựng cuộc sống của mình, gia đình mình và góp phần vào sự nghiệp chung của đất nước. Có thể làm được điều đó vì tư tưởng Hồ Chí Minh gần gũi với mọi tấm lòng Việt Nam, gần gũi như khí trời, như cơm ăn nước uống trong mạch sống Việt Nam từ túp lều tranh cho đến ngôi biệt thự.
Tư tưởng Hồ Chí Minh gần gũi với người nông dân còn bao gian khó, đổ mồ hôi, sôi nước mắtt trên cánh đồng chưa có mấy trợ lực của khoa học và công nghệ, cũng như với bà con nghèo đô thị nơi xóm thợ nghèo khổ của những công nhân làm việc tại các khu chế xuất, các xí nghiệp liên doanh… với bao nỗi lo toan trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn. Hồ Chí Minh đến được với họ vì bình sinh Người chỉ có một "ham muốn, ham muốn tột bậc là làm cho cuộc sống của họ được no ấm, con em của họ được học hành. Những người lao động lam lũ ấy hiểu Hồ Chí Minh vì tư tưởng của người lãnh tự nhân dân, đã quy tụ được những khát vọng, những mong mỏi hàng ngày vốn bình dị và nghiệt ngã như chính cuộc sống của họ vậy thôi.
Và, với những nhà doanh nghiệp đang có vai trò lớn trong xây dựng nến kinh tế thị trường lành manh, dấn bước trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, Hồ Chí Minh không xa lạ với họ. Từ những ngây đầu của chính quyến cách mạng Hồ Chí Minh đã nhận rõ vi trí của các nhà công thương trong khối đại đoàn kết dân tộc để làm cho đất nước phú cường. "Tuyên ngôn Độc lập" khai sinh ra nước Việt Nam mới được có trong căn phòng của một nhà tư sản lớn giàu lòng yêu nước.
Hơn ai hết, những người trí thức Việt Nam hiểu rõ Hồ Chí Minh, nhận ra tầm vóc lãnh tụ của dân tộc ở trí tuệ một nhà văn hoá lớn cùng trái tim ấp ủ những khát vọng nhân văn của một con người khao khát tự do: “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng/ Cay đắng chi bằng mất tự do”. Hồ Chí Minh đã biết cách trả về lại cho người trí thức Việt Nam ngọn nguồn yêu nước truyền thống vốn nằm sâu trong tâm thức của họ, khơi dậy năng lực cống hiến của tiềm lực trí tuệ trong họ. Với Hồ Chí Minh, người trí thức Việt Nam hiểu được chỗ đứng của họ trong lòng dân tộc.
Thời gian đủ để kiểm nghiệm độ chính xác và sự tường minh của một tư tưởng, trải qua những biến động dồn dập cả trong nước và trên thế giới vẫn chứng minh được sức bền, độ “chín” của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là sự kết tinh trí tuệ và khí phách của một dân tộc, là sự tiếp nhận và hội tụ những tinh hoa của tư tưởng mà loài người đã giữ lại qua quá trình tiếp biến, thanh lọc và kiểm nghiệm. Vì thế nó đủ tầm cao của sự khái quát của lý luận và đường hướng phát triển, vừa gần gũi, đi thẳng vào lòng người Việt Nam vì nó diễn đạt được chân lý của cuộc sống.
Chân lý thì luôn luôn đơn giản, song hiểu được chân lý, đến được với chân lý thì thường lại cực kỳ gian chuân.
Cuộc sống đang sải những bước đi táo bạo và quyết đoán trong thời đại của những biến động dồn dập. Tầm mắt không ít người dã được mở rộng hơn nhờ vào "sự xé toang một tấm màng bưng bít, sự hiện ra và sáng lên của sự thật, sự tan vỡ một số huyền thoại, sự phá sản nhiều giáo điều, sự bộc lộ những sai lầm trầm kha, sự nhận thức mới, không phải về tưởng mà về lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống, sự khơi dậy những niềm hy vọng mới, sự bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn” (trích từ bài viết thế kỷ XX của Việt Phương – thành viên Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ).
Để bắt đầu một quá trình thanh lọc và tái tạo đầy hứa hẹn ấy, mở rộng tầm mắt là điều kiện tiên quyết. Đó cũng là đòi hỏi trước tiên đề có thể chủ động đón nhận sự thách thức mới trong qúa trình hội nhập quốc tế. Tính chất gay gắt và chưa có tiền lệ của những thách thức ấy đang đòi hỏi một bản lĩnh mới của những người đang gánh trên vai mình trách nhiệm nặng nề của lịch sử. Bản lĩnh ấy, xét đến cùng lại cũng được quyết định quyết định bởi tầm nhìn mới, bởi “đôi mắt mới nhìn vào thế giới”.
Không phải là không có lý khi người ta cho rằng: thế giới đã thay đổi và kiểu tư duy tuyến tính không con thích hợp với một thế giới phi tuyến. Không có một bản đồ vạch sẵn cho con đường phía trước. Những kinh nghiệm có sẵn, những phương pháp truyền thống không còn đủ cho hành trình của dân tộc đi về phía trước. Vì thế, sáng tạo và linh hoạt trong tư duy cũng như trong hành động phải là phẩm chất hàng đầu của con người Việt Nam đang sống trong thế kỷ XXI. Để có được phẩm chất đó, đỏi hỏi phải có “sự nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống”. Để làm được điều đó, phải biết khai thác cái lợi thế vô song của chúng ta, đó là uy tín của tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá mà thế giới từng biết và đã tỏ lòng ngưỡng mộ.