Trước những thông tin sai lệch, dối trá, bôi đen sự thật nhằm xúc phạm Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống phá Đảng và chế độ này, cần phải khẳng định chắc chắn rằng:
CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA MỞ ĐẦU MỘT THỜI ĐẠI MỚI TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Càng có đội lùi của thời gian, chúng ta càng khẳng định rằng: Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của cuộc Cách mạng Tháng Mười vẫn vẹn nguyên, trường tồn. 105 năm đã trôi qua (1917-2022), song sự kiện vĩ đại, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu sắc, làm rung chuyển cả thế giới cũng như việc cuộc cách mạng vĩ đại ấy đã mở ra con đường đưa các dân tộc thuộc địa, bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc; trong đó có Việt Nam ở Đông Nam châu Á là không thể phủ nhận! Đó chính là một cuộc Cách mạng mở đường, đúng như V.I Lênin đã khẳng định: “Chúng ta có quyền tự hào và quả thật chúng ta tự hào là đã có cái hân hạnh được bắt đầu xây dựng nhà nước Xôviết và do đó, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới, thời đại thống trị của một giai cấp mới, giai cấp bị áp bức trong tất cả các nước tư bản và ở khắp nơi đang tiến tới một cuộc đời mới, tới chỗ chiến thắng giai cấp tư sản, tới chỗ thành lập chuyên chính vô sản, tới chỗ giải phóng nhân loại khỏi ách tư bản, khỏi những cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa”(1).
Với Việt Nam, vào thập niên 1920, khi Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đang bôn ba trên hành trình tìm đường cứu nước, trải nghiệm và khảo sát các chế độ chính trị xã hội ở nhiều quốc gia, nhiều châu lục, thì Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công. Không lâu sau, Quốc tế thứ III - Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin sáng lập ngày 2/3/1919 tại Mátxcơva (Liên Xô) đã “bắt đầu thực hiện khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tổng kết thực tiễn trong một thế kỷ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, khẩu hiệu biểu hiện bằng khái niệm: chuyên chính của giai cấp vô sản” . Ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga và “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin đã giúp Người tìm thấy con đường để giải phóng dân tộc mình, nhân dân mình khỏi kiếp lầm than. Và thế là, như một sự lựa chọn của lịch sử, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp (12/1920), Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ lựa chọn, bỏ phiếu cho Quốc tế thứ III, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên - một trong những thành viên tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, mà còn đồng thời lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Một hành trình hoạt động cách mạng về lý luận và thực tiễn, hình thành con đường cách mạng Việt Nam bắt đầu. Và cũng từ sự lựa chọn có ý nghĩa lịch sử vô cùng quan trọng này, sau đó, trong quá trình chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định trong tác phẩm Đường Cách mệnh rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam”(2); “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(3) và “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(4)…
Khi những điều kiện cần và đủ đã chín muồi, Người đã không chỉ vận dụng những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để sáng lập một Đảng Mácxít - Lêninnít cách mạng chân chính; đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán làm nòng cốt cho phong trào cách mạng; cổ vũ, động viên và quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong các hình thức Mặt trận dân tộc thống nhất; sáng lập lực lượng vũ trang cách mạng; xây dựng căn cứ địa cách mạng… mà còn lãnh đạo nhân dân kiên trì đấu tranh cách mạng, đón và chớp đúng thời cơ để vùng lên giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị của Nhật, Pháp và giành chính quyền về tay nhân dân. Với Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM DO CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, ĐẢNG TA VÀ NHÂN DÂN LỰA CHỌN LÀ ĐÚNG ĐẮN
Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội Tours của Đảng Xã hội Pháp, tháng 12-1920
Lịch sử dân tộc Việt Nam và lịch sử thế giới đương đại ghi nhận rằng: Không có sự lựa chọn con đường cứu nước đúng đắn theo những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 của Nguyễn Ái Quốc; không có việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam những năm cuối thập niên 1920 thì tất yếu cũng không có một Đảng cách mạng được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc một Đảng Mácxít - Lêninnít để tập hợp, quy tụ, lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đấu tranh và giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Và nếu không có thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền của nhân dân Việt Nam vào mùa Thu năm 1945 thì cũng không có một cuộc đổi đời lịch sử của những người nô lệ trở thành chủ nhân một nước Việt Nam độc lập, tự do trong thế kỷ XX. Bởi rằng, thắng lợi có ý nghĩa thời đại đó đã đưa tên đất nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới; đồng thời đưa nhân dân Việt Nam trở thành những người có quyền tự quyết định con đường phát triển của dân tộc mình và thụ hưởng những giá trị đích thực của độc lập, tự do, của quyền con người mà trước đó “họ chưa bao giờ có được”…
Thực tế cho thấy rằng, một ngày sau khi tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời chủ trì cuộc họp để giải quyết những công việc cấp bách. Giữa bộn bề công việc và ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, 6 nhiệm vụ cấp bách mà Người cùng Chính phủ quyết liệt triển khai thực hiện đều không ngoài những quyết sách nhằm chống thù trong, giặc ngoài, để bảo vệ nền độc lập vừa giành được và bắt đầu kiến thiết đất nước. Trong những ngày tháng cam go đó, không thể không nhắc đến những nhiệm vụ chính trị quan trọng được triển khai thành công như: Xúc tiến tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông, bỏ phiếu kín; soạn thảo và sớm thông qua tại Quốc hội khóa I để Việt Nam có một bản Hiến pháp dân chủ, công bình của các giai cấp - Hiến pháp 1946; thực hiện công cuộc xóa nạn mù chữ; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm để từng bước xóa nạn đói; tiến hành các hoạt động ngoại giao mềm dẻo, hòa hoãn với kẻ thù, ngăn chặn và làm thất bại âm mưu “diệt Cộng, cầm Hồ”, thôn tính đất nước của quân Tưởng và Pháp (hòa với Tưởng để tập trung đánh Pháp; hòa với Pháp để đuổi quân Tưởng về nước)…
Trong điều kiện vừa giành được độc lập, phải đối diện với nhiều khó khăn thách thức, những quyết sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng (đã rút vào hoạt động bí mật từ tháng 11/1945) và Chính phủ không chỉ mang lại cho người dân Việt Nam những lợi ích thiết thực của độc lập, tự do, mà còn góp phần củng cố, nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Vì thế, không có việc chế độ dân chủ cộng hòa ở Việt Nam khi đó là “phi dân chủ”, là thực hiện chuyên chính vô sản nên “đã tàn sát” những người yêu nước trong các đảng phái khác, “gây đổ vỡ lớn trong dân tộc” như sự bịa đặt của Tâp hợp dân chủ đa nguyên. Thực tế, những công việc mà chính quyền cách mạng triển khai đều không ngoài thực thi nhiệm vụ bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống yên bình của người dân cả nước. Nếu Việt Nam thực sự “phi dân chủ”, thì chắc chắn không thể có cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I theo nguyên tắc bình đẳng, phổ thông đầu phiếu và bỏ phiếu kín. Hơn nữa, nếu không có dân chủ, nếu Đảng thực sự “độc tài và chuyên quyền” như các thế lực thù địch vu khống, thì cũng không thể có khối đại đoàn kết toàn dân tộc được xây dựng, củng cố trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức cùng các tầng lớp lao động khác trở thành động lực chủ yếu của cách mạng được tập hợp trong các hình thức Mặt trận từ năm 1930 đến nay (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) được.
Có một sự thật cũng cần phải khẳng định rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) của nhân dân Việt Nam chắc chắn không phải là “cuộc nội chiến Bắc - Nam” và cuộc trường chinh kháng chiến đó cũng không phải là sự áp đặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng như các luận điệu phản động, xuyên tạc tung lên mạng xã hội. Mà chỉ có một sự thật- đó là một cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân Việt Nam cho lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do", cho khát vọng “thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta”, cho niềm tin tưởng “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam” và “đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi!”(5)… dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Việc quy chụp cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “nội chiến” chính là một trong những chiêu trò đổi trắng thay đen của các nhà “rân chủ”, ngáo “dân chủ tư sản”. Luận điệu xuyên tạc này không phải là sự thật, mà sự thật là nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Vì thế, sau 21 năm kiên cường kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, miền Nam đã được giải phóng, cả nước đã thống nhất vào mùa Xuân năm 1975. Như vậy là, nhân dân Việt Nam yêu nước đã đồng tâm, hợp lực và đoàn kết để chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc mình; cho phẩm giá làm người của chính mình như mình lựa chọn, chứ không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam “sai lầm từ đầu”, “mê muội rập khuôn theo Liên Xô”, “đi theo Liên Xô vào lúc mà đế quốc này sắp sụp đổ”, đã “áp đặt cuộc nội chiến” như sự quy chụp và vu khống của các thế lực thù địch.